Tứ tôn châm

Posted: Tháng Mười Một 30, 2011 in Tư liệu tham khảo

Hoàng giáp Nguyễn Khắc Niêm (1889-1954) là một đại thần triều Nguyễn, nguyên Thượng thư Bộ Lễ, Phủ doãn Thừa Thiên, Tổng đốc Thanh Hóa. Ông sinh năm 1889 tại làng Gôi Vị, nay là xã Sơn Hòa, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Từ nhỏ, Nguyễn Khắc Niêm đã thông minh tuấn tú hơn người. Năm 1906, mới 17 tuổi, ông thi đậu cử nhân, trường thi Nghệ An. Năm 1907, ở tuổi 18, ông thi đậu đệ nhị giáp tiến sĩ (Hoàng giáp), khoa thi đình Đinh Mùi, tại Huế. Có thể nói, Hoàng giáp Nguyễn Khắc Niêm là một trong số rất ít người đậu đại khoa thời phong kiến khi ở cái tuổi còn rất trẻ như thế. Khi thi đỗ đại khoa, được cùng các vị tiến sĩ đồng khoa triều kiến vua Thành Thái, nhà vua đề nghị mỗi vị tân khoa tiến sĩ hãy góp kế sách để phục hưng quốc gia, Nguyễn Khắc Niêm đã đọc 4 câu như sau:

(Đề cao nòi giống ắt đại hòa hợp

Coi trọng bổng lộc ắt đại nguy nan

Tôn trọng tài năng, ắt đại phồn thịnh

Ưa thích xiểm nịnh, ắt đại suy vong.)

Thành Thái, một ông vua yêu nước tràn đầy khí phách, đã không có cơ hội để thực hiện 4 câu châm ngôn mà vị Hoàng giáp trẻ tuổi đề xuất. Ngay sau khoa thi này, cũng trong năm 1907, Hoàng đế Thành Thái do bộc lộ tư tưởng chống Pháp ngày càng rõ rệt, đã bị Toà khâm sứ Trung Kỳ ép thoái vị. Thật đáng tiếc! Tuy không gặp được minh quân để thi thố cái chí hướng Y, Phó, Quản, Nhạc lại bất đắc dĩ phải ra làm quan với chính quyền bù nhìn, nhưng suốt thời gian 32 năm xuất chính, khi làm học quan, khi làm quan hành chính ở các tỉnh và bộ, Nguyễn Khắc Niêm vẫn luôn luôn sống thanh liêm, giữ khí tiết và phần nào cố gắng thực hiện những tư tưởng, hoài bão mà bản thân ông đã nung nấu từ thuở thiếu thời.

Tháng 2-1942, có lẽ chán với cảnh làm quan nô lệ, ông từ quan về quê dạy học. Sau năm 1945, ông tích cực tham gia công tác tại địa phương từ Hội đồng nhân dân xã, ủy ban phòng vệ huyện Hương Sơn, Ban văn hóa tỉnh Hà Tĩnh, ủy viên Ban chấp hành Mặt trận Liên Việt, kiêm trưởng ban cứu trợ thương binh Liên khu 4. Năm 1952, ông được chính phủ mời ra Việt Bắc họp hội nghị Liên Việt trung ương, nhưng vì sức khỏe yếu không đi được. Năm 1954, ông tạ thế tại quê nhà.

Tuy Hoàng giáp Nguyễn Khắc Niêm không gặp được vận hội tốt lành để trí quân trạch dân (giúp vua chăm lo cho dân), nhưng 4 câu châm ngôn nói trên của ông thì đến nay còn nguyên giá trị. Chúng ta có thể xem 4 câu châm ngôn này là 4 vế câu của hai mệnh đề. Các vế câu có liên quan chặt chẽ với nhau; đồng thời, có thể xếp vế thứ nhất và vế thứ hai làm một mệnh đề, vế thứ ba và vế thứ tư làm một mệnh đề. Mỗi mệnh đề có hai vế tương phản lẫn nhau để khẳng định hai mặt của một vấn đề.

Trước hết, chủ trương “tôn tộc” (đề cao tộc họ) là để “đại quy” (quy tụ về một mối lớn) của Nguyễn Khắc Niêm thực chất là chủ trương đại đoàn kết dân tộc. Theo Hán-Việt từ điển của Thiều Chửu, chữ “tộc” (族), gồm có các nghĩa sau đây:

1. Loài, dòng dõi, con cháu cùng một liêu thuộc với nhau gọi là tộc. Từ cha, con đến cháu là ba dòng (tam tộc 三 族). Từ ông cao tổ đến cháu huyền gọi là chín dòng (cửu tộc 九 族). Giết cả cha mẹ vợ con gọi là diệt tộc 滅 族.

2. Họ, cùng một họ với nhau gọi là tộc. Như tộc nhân 族 人 người họ, tộc trưởng 族 長 trưởng họ, v.v.

3. Loài. Như giới tộc 介 族 loài có vẩy, ngư tộc 魚 族 loài cá, v.v.

4. Bụi. Như tộc sinh 族 生 mọc từng bụi.

5. Hai mươi lăm nhà là một lư 閭, bốn lư là một tộc 族.

Như vây, chữ tộc trong câu nói của Nguyễn Khắc Niêm có nghĩa là giống loài, là cả một cộng đồng quần cư chứ không phải là chỉ các dòng họ trong cộng đồng. Có thể nói, cái sự “đại quy”, sự quy tụ lớn này, chính là sự đoàn kết trong nội bộ cộng đồng dân tộc, sự đồng thuận trong xã hội. Đó là tiền đề quan trọng nhất để đảm bảo thắng lợi cho mọi cuộc cuộc vận động xã hội từ xưa đến nay. Trong lịch sử dân tộc ta, đã có rất nhiều sự kiện trực tiếp hoặc gián tiếp chứng minh hùng hồn cho chân lý trong câu châm ngôn đó.

Đáng lo ngại nhất đối với chủ trương “tôn tộc đại quy” (đại đoàn kết dân tộc) là tình trạng kéo bè, kết cánh; vì lợi ích cục bộ với nhau theo kiểu cánh hẩu, theo từng địa phương, thậm chí theo từng dòng họ. Đến bây giờ, câu tục ngữ “Một người làm quan cả họ được cậy, một người làm bậy cả họ mất nhờ” dường như đang ngày càng có cơ sở thực tế. Trong bối cảnh phát triển hiện nay của dân tộc, việc củng cố, phát huy gia tộc là đúng, là cần thiết. Tuy nhiên, sự phát triển của gia tộc nếu không đúng hướng, không phù hợp với lợi ích dân tộc thì sẽ góp phần tạo ra tình trạng cát cứ, dễ phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc. Đành rằng, dân tộc Việt này, cũng như các dân tộc thiểu số khác trong cộng đồng 54 dân tộc anh em, là sự hợp quần của bách tính (trăm họ). Nhưng chỉ có việc phát triển dân tộc mới bảo đảm cho việc phát triển các dòng họ. Tình trạng phục hưng nghi lễ, củng cố tôn ty, hệ thống, uy thế của các dòng họ hiện thời, đã có không ít biểu hiện lệch lạc. Đặc biệt, ở môi trường nông thôn, một số kẻ hoạt đầu, cơ hội trong các dòng họ đã lợi dụng tình hình này để mưu lợi ích riêng, tạo ra các cuộc tranh chấp không đáng có giữa các dòng họ, gây rối loạn trong cộng đồng xã hội. Chính những kẻ này đã kích hoạt nhiều thói hư tật xấu của số đông thành viên trong các dòng họ, làm bại hoại thuần phong mỹ tục, cản trở cả việc thực thi pháp luật.

Liên quan chặt chẽ đến việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc là lẽ công bằng, là sự minh bạch, là tính dân chủ của chế độ xã hội. Vì vậy, nếu một xã hội chỉ biết “tôn lộc”… ắt là “đại nguy”. Bởi, nếu chỉ biết coi trọng bổng lộc, coi trọng những thu nhập bất chính của các cá nhân hoặc phe nhóm thì lấy đâu ra công bằng, dân chủ, công khai? Thì, dĩ nhiên, sẽ gây ra tình trạng xâu xé lẫn nhau, “trên dưới đánh nhau vì lợi” (上 下 交 征 利 thượng hạ giao chinh lợi – Mạnh Tử), sẽ sinh ra hạng người chỉ biết lợi ích cá nhân là trên hết, sống vì lợi quên nghĩa… Trong thời đại này, thời đại kinh tế thị trường, không thể không coi trọng các thứ lợi ích của các thành viên trong xã hội. Không nên có thái độ coi thường lợi ích vật chất như các nhà Nho xưa. Nếu vậy, xã hội sẽ nghèo nàn, đình trệ. Nhưng nếu chỉ biết coi trọng lợi ích một cách thái quá (tôn lộc), thì cái nguy cơ làm rối loạn, suy yếu đối với cộng đồng dân tộc sẽ lớn hơn rất nhiều.

Nếu chủ trương “tôn lộc” làm đẻ ra hạng tiểu nhân chỉ biết tranh nhau vì lợi gây rối loạn, suy yếu cho quốc gia, dân tộc thì chủ trương “tôn tài” sáng suốt sẽ là phương châm cứu thế tuyệt vời. “Tôn tài đại thịnh”! Cách đây 500 năm, Thân Nhân Trung (1418-1499), tiến sĩ thời Hồng Đức, đã khẳng định tầm quan trọng của nhân tài đối với sự thịnh suy của một quốc gia: “… Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì thế các bậc đế vương thánh minh không đời nào không coi việc giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí quốc gia làm công việc cần thiết…”. Trải qua bao thăng trầm của các triều đại trong lịch sử dân tộc, chân lý này càng trở nên ngời sáng. Tuy nhiên, “tôn tài” cũng có năm bảy đường, năm bảy kiểu. Một mặt, “người tài” là những người vừa có tài đức, nghĩa khí hơn người nhưng mặt khác, họ cũng là những người rất có cá tính, rất nhạy cảm, rất tự trọng. Lịch sử Việt Nam, Trung Quốc và các nước khác trên thế giới đã có nhiều bài học sinh động, đắt giá cho nhà cầm quyền trong việc đối xử với nhân tài. Người tài thực sự không thể chỉ có lấy lợi mà mời họ được, cũng không lấy quyền lực mà uy hiếp họ phải theo mình. Họ là những người “Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất” (Giàu sang không cám dỗ được, nghèo hèn không làm thay đổi ý chí, uy quyền không khuất phục được).

Tôn tài không chỉ ngưỡng vọng, đề cao người tài mà cái quan trọng nhất vẫn là phải biết dùng họ đúng tầm mức, sở trường. Nói chung, chỉ có hạng vĩ nhân, thiên tài thì mới tạo ra được cơ hội, môi trường để thi thố tài năng; còn ra, hạng nhân tài thì phải trông chờ vào cơ chế xã hội tạo môi trường, điều kiện thì họ mới có cơ hội để cống hiến. Nếu không thế, thì họ cũng chỉ uất ức với cái tâm tư “hoài tài bất ngộ” (tiếc có tài mà không gặp thời). Thậm chí, tiêu cực hơn, họ lại trở thành một lực lượng chống đối đáng sợ.

… Trò đời, khi cái tích cực, cái thiện, cái tốt không được phát huy thì cái tiêu cực, cái ác, cái xấu có đất nảy nở. Cũng vậy, khi người tài không được trọng dụng thì ắt là bọn xiểm nịnh được thời ngóc đầu dậy như rắn. Những kẻ này chỉ có một cái tài là làm vừa lòng người cầm quyền, dắt dẫn người cầm quyền vào con đường ăn chơi sa đoạ để lợi dụng. Lịch sử các dân tộc cổ kim, đông tây có quá nhiều tấm gương tày liếp cho vấn đề này. Chỉ nội một việc thời Lê sơ, khi Lê Thái Tổ nghe bọn nịnh thần nghi ngại và sát hại, đày đoạ các bậc hiền tài, trung lương như Phạm Văn Xảo, Trần Nguyên Hãn, Nguyên Trãi… đã khiến cho đến đời con (Lê Thái Tông) sinh loạn, đến đời cháu là Lê Thánh Tông chỉ phồn thịnh được trong khoảng nửa thế kỷ để rồi sau đó đất nước rơi vào hoạ nội chiến kéo dài mấy mấy trăm năm. Câu “tôn nịnh đại suy” là một chân lý lịch sử phổ biến hầu hết ở mọi cộng đồng dân tộc. Bài học lịch sử thì rõ ràng như vậy, nhưng hầu như triều đại nào cũng mắc phải, cũng phải trả giá rất đắt. Sở dĩ như vậy là vì tâm lý con người ta thường là “thích nghe nịnh hót, ghét bỏ lời trung”, càng là những người có quyền thế thì tâm lý này lại càng đậm nét. Chỉ có những người có học thức, có văn hoá cao, biết suy nghiệm sâu sắc việc đời xưa nay, biết tu trì lý tưởng cao cả thì mới hòng tránh khỏi hoạ nịnh thần. Ngày nay, người ta nói nhiều tới văn hoá chính trị; có lẽ, việc lánh xa kẻ nịnh, biết gần người trung sẽ là tiêu chí văn hoá quan trọng nhất của người cầm quyền…

Nói tóm lại, càng suy ngẫm càng thấm thía tính chân lý, tính hiện đại của bốn câu châm ngôn nói trên. Có người đã khái quát đây là “Tứ tôn châm” 四 尊 箴 (Lời răn về bốn cái sự tôn). Trong hoàn cảnh xã hội hiện nay, vận vào đâu cũng thấy “Tứ tôn châm” đều đúng. Để thấy hết giá trị của “Tứ tôn châm”, chúng tôi xin nêu nhận định của ông Cam Ly: “Cụ Nguyễn Khắc Niêm chỉ với 16 chữ đã diễn đạt một cách súc tích sự minh triết Việt Nam… Mười sáu chữ vàng của cụ Hoàng Giáp Nguyễn Khắc Niêm nay vẫn còn nguyên giá trị, ý nghĩa giáo dục nhân sinh sâu sắc và lay động tâm can tất thảy những ai vì sự trường tồn của dân tộc”.

Một nhân tài mà hành trạng và tư tưởng có nhiều tiến bộ như thế, chúng ta cần phải tổ chức nghiên cứu các di cảo của ông và hội thảo về ông một cách nghiêm túc để kế thừa và phát huy. Hy vọng, sẽ có một cuộc hội thảo tầm cỡ và có chất lượng về những gì Hoàng giáp Nguyễn Khắc Niêm để lại, trên miền quê yêu dấu của ông.

Trà Sơn Phạm Quang Ái

Sở VH, TT, DL Hà Tĩnh

————————————————————————————————————————

Ghi chú: Hoàng giáp Nguyễn Khắc Niêm là phụ thân của các ông Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Khắc Dương, Nguyễn Khắc Phi và Nguyễn Khắc Phi. Bài viết của Trà Sơn Phạm Quang Ái khá dài, venguonblog mạn phép trích đăng lại một số đoạn.

Bình luận về bài viết này